Hoả tiễn P-35B của hệ thống tên lửa bờ Redut cũng có phương thức dẫn bắn rưa rứa với máy bay AN-26 RT làm nhiệm vụ chuyển tiếp chỉ huy
Như vậy toàn bộ các đợt phóng hoả tiễn: 6 tên lửa từ một tàu ngầm hạt nhân.
Đầu đạn có thể là 800 kg HE hay 100 kT (đầu đạn hạt nhân). Tên lửa đi xuống tầm thấp. Giữa những năm 1963 đến 1966. Vào năm 1966. Đi theo sau đó lại là 8-12 phút khác của chuyến bay. Dự án 659-Echo I; Tàu tuần dương dự án 1134-Kresta I. 1 m Đường kính: 900 mm Sải cánh: 2. Thành phần gồm có một Tu-95 RC Bear-D với radar của nó cùng hệ thống bàn thảo dữ liệu giữa tàu bay và tàu phóng.
Để dạo và bắt được một hạm đội tàu sân bay trên đại dương là nhiệm vụ khôn cùng khó. Thao tác viên bật hệ thống tìm đường của hoả tiễn sang chế độ tự động. Tất thảy đều được trang bị hoả tiễn chống tàu P-6. Liên Xô quyết định trang bị hoả tiễn hành trình tấn công đất liền cho 5 tàu ngầm hạt nhân Echo I sắp được rút khỏi biên chế
4 và bắt đầu độ đích phía trước bằng radar chủ động của nó. Dự án hoả tiễn P-6/ P-35 lần trước hết mang lại cho Hải quân Liên Xô năng lực chống tàu tầm xa. Một loạt đạn đơn mất 8-12 phút để đến đích phụ thuộc vào khuôn khổ.
Tên lửa P-35 của hệ thống hoả tiễn bờ Redut. Tầm của tên lửa là 460 - 550 km. Thao tác viên trên tàu sẽ xác minh liệu đó có phải đó là đích mong muốn hay không (thí dụ như hàng không mẫu hạm trong nhóm tàu). Tuy nhiên. Trước đó. Vào tháng 8/1956 một tên lửa hành trình chống tàu tầm xa đã được phát triển dựa trên nền móng ban đầu là P-5 Progress (4K95; SS-N-3 Shaddock) - tên lửa hành trình đối đất siêu thanh với tầm phóng 500 km (P-5 có hệ thống dẫn đường chủ động quán tính và phiên bản đương đại hóa P-5D được trang bị 1 radar xung Doppler).
Tình huống sẽ khác hoàn toàn ở trường hợp của đầu đạn quy ước và những chỉ huy Xô Viết biết rằng trong trường hợp này nhiệm vụ sẽ chẳng thể thực hành được. 4. Vấn đề lớn nhất là xác định mục tiêu cho hoả tiễn.
Từ năm 1963 đến 1968. Syria Ưu tiên hàng đầu của Hải quân Liên Xô là bảo vệ những vùng ven biển để bảo đảm an toàn cho các hoạt động trên đất liền. Sau khi phóng
Hai phiên bản của hoả tiễn đã được phát triển gồm: tên lửa đất đối hải P-35 (SS-N-3B Sepal) và phiên bản cho tàu ngầm P-6 (SS-N-3C Shaddock). Vẫn ở tốc độ siêu thanh và sẽ chui xuống nước 10-20m trước khi tới mục tiêu rồi nổ để tăng thiệt hại. Vào đầu những năm 1950. Những tàu này được chuyển đổi từ tàu lặn tấn công chỉ được trang bị ngư lôi sang tàu lặn có khả năng phóng tên lửa.
Cả hai sử dụng phương thức dẫn đường INS/ Doppler cho pha giữa và radar chủ động cho pha cuối.
Chỉ có phi cơ ném bom hải quân Tu-16 KS vũ trang với hoả tiễn chống tàu K-10 có khả năng như vậy.
Đã có 8 tàu mặt nước được trang bị hoả tiễn P-35 gồm: 4 tuần dương hạm lớp Kynda với 2 silo 4 ống phóng SM-70 và 4 tàu frigate lớn lớp Kresta-I với 2 silo 2 ống phóng KT-35 cùng 16 tàu lặn diesel Juliet cũng được trang bị. Câu giải đáp đã được tìm thấy nhờ việc dùng những tín hiệu sáng dạ (SIGINT) và radar do thám của tàu bay. Cả hai tàu bay hiệp tác nhưng vận hành độc lập. Việt Nam.
4 Đầu đạn: 800 kg HE hay 100 kT (hạt nhân) Trọng lượng phóng: 4. Từ điểm bắt đầu. Tại Việt Nam. Để chống lại hạm đội tàu sân bay Mỹ. Tuần dương hạm lớp Kynda tên lửa P-6 và P-35 chỉ khác nhau ở vài chi tiết nhỏ còn lại đều giống nhau với cùng hệ thống dẫn đường và đầu đạn
Sau đó. 600 mm Tầm bắn: 460 Km (550 km với P-35B) Tốc độ: Mach 1. Tăng tốc tới Mach 1. Sử dụng động cơ khởi tốc nhiên liệu rắn và động cơ hành trình nhiên liệu lỏng cho phép đạt tới tốc độ tối đa Mach 1. Hay 8 từ một tuần dương hạm mất 20-30 phút.
Tiêu biểu là cặp bài trùng Tu-16 RM Badger-D và Tu-95 RT Bear-D. 500 kg Tàu trang bị: tàu ngầm dự án 651-Juliett. 16 tàu ngầm hạt nhân Echo II được đóng cho Hạm đội Biển Bắc và 13 chiếc cho hạm đội Thái Bình Dương.
Rồi mất 4-6 phút để chuẩn bị cho loạt đạn tiếp theo. Hình ảnh được truyền tới tàu phóng phê chuẩn 1 kênh TV. Mỗi chiếc Echo II mang 6 ống phóng với 6 hoả tiễn. Với mỗi tàu ngầm mang 4 ống phóng và 4 tên lửa P-6.
Trong khi đó. Phóng đi không hơn 12 tên lửa có thể vận hành cùng lúc chống lại một hạm đội tàu sân bay với số lượng radar và datalink sẵn có. Những cuộc thử nghiệm trước tiên bắt đầu trong tháng 10/1959 cho P-6 và tháng 12 sau đấy cho P-35
Hơn nữa sẽ chỉ có ba hay bốn tàu. Dự án 58-Kynda Nước dùng Liên Xô/ Nga. Người ta cho rằng chỉ cần từ 2-4 cú đánh với những tên lửa mang đầu đạn hạt nhân là đủ để vô hiệu hóa vớ hạm đội hàng không mẫu hạm Mỹ. Lực lượng tấn công gồm những tàu mặt nước hay tàu ngầm (đã nổi) sẽ bơ vơ trước đòn phản công của quân thù.
Máy bay SIGINT Badger-D sẽ thu nhặt những tín hiệu radar và tín hiệu vô tuyến được phát đi từ hạm đội tàu sân bay và định hướng cho Bear-D được trang bị một radar đối hải tầm xa. Tên lửa leo lên cao. Không cần thiết để tàu bay SIGINT phải tiếp cận khu vực chết người xung quanh hàng không mẫu hạm và khi radar bắt được đích thì tàu bay SIGINT sẽ chuyển sang lóng những vùng khác.
Hạm đội tàu sân bay Mỹ trở nên mối đe dọa nghiêm trọng nhất đối với Hải quân Liên Xô khi có thể chế áp tất thảy các hoạt động từ phòng thủ đến tiến công. Nhiệm vụ thứ hai của các “Hạm đội Đỏ” là cắt đứt tuyến vận chuyển trên Đại Tây Dương giữa Mỹ và NATO trên vùng biển thuộc Châu Âu. Máy bay Tu-95 RT Hệ thống MRSC-1 Uspekh được phát triển đặc biệt để thu nhận tín hiệu từ đích và chỉ điểm cho những hoả tiễn chống tàu.
Tên lửa được phát triển bởi OKB-52 (nay là NPO Mashinostroyenia). Tên lửa P-35B của hệ thống tên lửa bờ Redut Vào những năm đầu. Tàu lặn Echo II sử dụng hệ thống điều khiển hỏa lực Argument để cài đặt trước cho hệ thống dẫn đường quán tính của hoả tiễn và trao đổi dữ liệu với hoả tiễn trong khi bay.
Tất thảy hệ thống rất cồng kềnh và đầy những tội. Khi mục tiêu được xác định. Hoả tiễn cũng có cánh thu gọn được giúp giảm kích tấc của ống phóng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét