Trong đó, các loại vật liệu giàu năng lượng như ngô, cám, lúa mì thiếu (khoảng 30 đến 40%), thức ăn giàu đạm như đỗ tương, bột xương thịt, bột cá (khoảng 70 đến 80%), riêng các loại khoáng chất, vi lượng, phụ gia thì phải du nhập 100%.
Khai hoang nguồn nguyên liệu trong nước Trong Chiến lược phát triển chăn nuôi đến năm 2020 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra, mục tiêu đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính, chiếm tỷ trọng 42% trong cơ cấu giá trị ngành nông nghiệp.
Khiến sản phẩm khi đến tay người chăn nuôi đã "đội" lên. Thời kì qua, Chính phủ đã có chính sách bình ổn giá TĂCN nhưng vẫn chỉ là giải pháp mang tính "tình thế" bởi giá TĂCN luôn trong tình trạng bất ổn "tăng nhanh, giảm chậm" và người chăn nuôi luôn chịu thua thiệt.
Nguyên nhân là vì chất lượng nguyên liệu không đạt chuẩn do quá trình thu hoạch và bảo quản của người dân chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra. Với vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ, nơi có năng suất ngô cao, khả năng cạnh tranh được với ngô nhập cảng, có thể chuyển một phần diện tích lúa vụ đông xuân sang chuyên canh ngô.
Về vấn đề này, Giám đốc nhà máy TĂCN Lạc Hồng (Hưng Yên) Hoàng Dương Hải san sẻ: Do đặc thù vật liệu của ngành cốt yếu nhập khẩu từ nước ngoài nên khi hàng về tới cảng cũng chịu sự kiểm soát ngặt nghèo của các cơ quan thương chính, thú y, bảo vệ thực vật.
Nếu nạm sản xuất trong nước, thì giá thành còn cao hơn nhập cảng. Chưa kể tới việc người nông dân khi bán nông sản cho các công ty liên doanh chế biến TĂCN với giá rẻ để rồi khi nó thành sản phẩm lại phải mua rất đắt từ chính các công ty này. Phụ thuộc vật liệu nhập cảng, người chăn nuôi "thiệt đơn, thiệt kép" Trong thời kì qua, ngành chăn nuôi nước ta luôn phải đối mặt với những thách thức khi giá bán sản phẩm giảm thấp, còn giá thành sản xuất luôn đứng ở mức cao.
Điều đó có nghĩa, chúng ta phải tối ưu hóa được nguồn nguyên liệu trong nước bằng nhiều biện pháp linh hoạt. Bài và ảnh: HẢI PHƯƠNG.
Về vấn đề này, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã có nhiều chủ trương như chuyển đổi 200 nghìn ha trồng lúa kém hiệu quả sang trồng ngô, đậu tương. Đồng thời, cần có sự thay đổi nhận thức về trách nhiệm từng lớp của các doanh nghiệp trong việc chung tay vì sự phát triển của ngành, bảo vệ được lợi ích và cùng chia sẻ rủi ro với người chăn nuôi.
Ở rất nhiều tỉnh, tỉnh thành trong cả nước, người chăn nuôi đã buộc phải "treo" chuồng do thua lỗ. Hy vọng, khi thực thi sẽ cuộn doanh nghiệp, dân cày trong chuỗi liên kết cung ứng nông sản, nhằm chủ động tạo nguồn vật liệu cho nhu cầu ngày càng tăng để chế biến TĂCN công nghiệp, nâng cao giá trị tăng trưởng của ngành chăn nuôi.
Bàn bạc quan điểm với chúng tôi về vấn đề này, Phó Cục trưởng gánh vác Cục Chăn nuôi Nguyễn Xuân Dương nhận định: "Đa số các loại vật liệu phải du nhập, cốt là những nông sản lại không phải là thế mạnh của Việt Nam: bột cá, các loại vi-ta-min, khô dầu, đậu tương.
Mới đây Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có văn bản trình Thủ tướng Chính phủ các chính sách thúc đẩy kết liên sinh sản tiêu thụ nông sản và xây dựng "cánh đồng mẫu lớn".
, Đồng thời thúc đẩy nghiên cứu khoa học, xem xét khía cạnh dinh dưỡng, lợi thế thị trường khi dùng thóc, gạo thay thế ngô, lúa mì. Về thức ăn xanh cho đại gia súc, các địa phương có nhu cầu thức ăn xanh sẽ mở mang diện tích trồng cỏ ở vùng miền núi, nơi hoang hóa, tận dụng triệt để đất lúa, đất rừng kém hiệu quả. Duyên do chính là do giá thức ăn chăn nuôi trong nước luôn cao (chiếm tới 65 đến 70% cơ cấu giá thành sản phẩm).
Cho dù số lượng thu hoạch từ ngô, sắn là rất nhiều. Họ chẳng những cần phải đẩy mạnh đầu tư trang thiết bị, nhà xưởng mà còn phải kết liên với nhau để tạo ra công mạnh. So với các nước trong khu vực, giá TĂCN ở nước ta luôn cao hơn (khoảng 15 đến 20%), dẫn đến các sản phẩm chăn nuôi của Việt Nam khó cạnh tranh.
Để làm được điều đó, Nhà nước và các tổ chức tín dụng nên có những chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp vay vốn đầu tư tạo vùng vật liệu. Tuy nhiên, dựa trên thế mạnh về sinh sản lúa gạo, cùng với điều kiện thiên nhiên, thổ nhưỡng, nguyên liệu ngô, lúa mì có thể thay được bằng sản xuất trong nước với các biện pháp: tăng diện tích cây trồng hoặc dạn dĩ dùng thóc, gạo để thay thế".
Tuy nhiên, theo nhận định của các chuyên gia, đích đó khó có thể đạt được nếu ngay từ bây giờ không kịp thời xây dựng nguồn cung cấp vật liệu TĂCN một cách ổn định.
Trong bối cảnh khó khăn chung của ngành, sự nạm tự thân của doanh nghiệp là khôn xiết quan yếu. Theo chủ toạ Hiệp hội thức ăn chăn nuôi Việt Nam Lê Bá Lịch, năm 2012, để đạt sản lượng hơn 12,7 triệu tấn thức ăn công nghiệp cho gia súc, gia cầm và 2,8 triệu tấn thức ăn cho nuôi trồng thủy sản, các doanh nghiệp đã phải nhập cảng tới tám triệu tấn nguyên liệu, trị giá hơn ba tỷ USD. Việc phải nhập khẩu vật liệu TĂCN đồng nghĩa với việc người chăn nuôi phải gánh thêm chi phí về vận chuyển, kiểm định, thuế, rủi ro khi thức ăn không đạt chuẩn.
Nên, khi thị trường TĂCN thế giới biến động về cung và cầu, ngay tức khắc ảnh hưởng tới thị trường trong nước. Thực tiễn cho thấy, đã có nhiều mô hình chăn nuôi gia trại, nông hộ ở Nghệ An, Hưng Yên sử dụng thóc, gạo làm thức ăn rất hiệu quả.
Nước ta có diện tích đất sinh sản nông nghiệp khá lớn, trong đó phần lớn diện tích dùng để trồng ngô và các loại hoa màu có thể làm vật liệu để sinh sản TĂCN, thế nhưng hằng năm chúng ta vẫn phải du nhập, ngô, sắn, cỏ khô. Với phương án sử dụng thóc để thay thế, sẽ gieo trồng loại giống lúa siêu cao sản, phẩm cấp trung bình. Tuy nhiên, để xây dựng được vùng vật liệu, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp chế biến TĂCN phải là cầu nối, ký kết hợp đồng tiêu thụ để người trồng có thể hoàn toàn yên tâm sản xuất.
Theo đó, sẽ chuyển một phần diện tích lúa kém hiệu quả (ở khu vực miền bắc và miền trung) sang trồng ngô, song song điều chuyển thời vụ cây trồng vụ hè thu, tăng diện tích ngô đông sớm. Phó Cục trưởng Cục trồng trỉa Phạm Đồng Quảng cho biết, trong dự thảo Chiến lược phát triển ngành trồng tỉa đến năm 2020, Cục trồng trỉa đã đề xuất ưu tiên tăng diện tích trồng ngô từ 1,1 triệu ha lên 1,4 - 1,5 triệu ha, có ứng dụng thâm canh, đưa tiến bộ kỹ thuật, giống mới vào sinh sản.
Khiến cho các doanh nghiệp khi tính giá thành sản phẩm buộc phải tăng thêm các hoài: lưu kho, lưu bãi. Cùng với đó, Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các tập thể, cá nhân chủ nghĩa xây dựng cầu cảng, hệ thống vận tải, nhà kho chuyên dụng, mở sàn giao thiệp về TĂCN qua mạng để các doanh nghiệp, người chăn nuôi cập nhật thông tin về giá nguyên liệu, giá thành phẩm TĂCN trong nước và trên thị trường thế giới.
Thức ăn xanh có thể đa dạng hóa từ trồng cỏ đến trồng ngô dày, ngô nếp, ngô rau; hoặc đưa công nghệ vào chế biến rơm rạ, thân ngô, bã mía làm thức ăn hỗn tạp TMR cho chăn nuôi bò sữa, đại gia súc.
Để đạt được, thời đoạn 2010-2015, ngành chăn nuôi sẽ phải bảo đảm tốc độ tăng trưởng bình quân 6 đến 7%/năm. Các viện nghiên cứu, các nhà khoa học cần hội tụ nghiên cứu các công thức phối trộn thức ăn phù hợp điều kiện chăn nuôi nước ta, sớm đưa cây trồng biến đổi gen vào sản xuất; khuyến khích chế biến bột cá; khuyến khích nghiên cứu tạo nguyên liệu mới như: thức ăn bổ sung, thức ăn phụ gia.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét